Ngày 11/10, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ (vùng BTB&DHTB) đã chủ trì Hội nghị điều phối vùng BTBDHTB tại thành phố Đà Nẵng. Đồng chủ trì Hội nghị có đồng chí Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đại diện Cơ quan lập quy hoạch vùng với sự tham dự của các bộ, ngành Trung ương, các địa phương vùng BTB&DHTB, các chuyên gia và nhà khoa học.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà chủ trì Hội nghị (Ảnh: MPI)
Tại Hội nghị, thay mặt cơ quan được Thủ tướng Chính phủ giao chủ trì lập Quy hoạch vùng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã có bài phát biểu trình bày những nội dung chính của quy hoạch. Theo đó, Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 là bước cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể quốc gia, thể hiện những định hướng lớn và cơ bản của các quy hoạch ngành quốc gia về tổ chức không gian phát triển; giúp “mở đường”, tạo ra các động lực phát triển, tiềm năng phát triển, không gian phát triển mới của quốc gia, của vùng và thể hiện cụ thể trên phạm vi không gian của từng địa phương.
Quy hoạch góp phần định hướng "mở đường" phát triển cho vùng
Xác định rõ vị trí vai trò của quy hoạch, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định, ngay từ những ngày đầu tổ chức lập Quy hoạch vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và các địa phương trong vùng để triển khai lập quy hoạch vùng.
Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ được lập trong bối cảnh Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 03/11/2022 về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 168/NQ-CP ngày 01/8/2022 về Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị; Quốc hội thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia và Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đặc biệt, hiện nay đã có 86/110 quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia đã được thẩm định; trong đó có 16 quy hoạch ngành quốc gia và 05/14 quy hoạch tỉnh thuộc vùng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; là "mặt tiền" của quốc gia và "khúc ruột" của Tổ quốc, là "cửa ngõ" ra biển cả và "bệ đỡ" cho các tỉnh Tây Nguyên. Chiều dài bờ biển gần 1.800 km, chiếm hơn 55% bờ biển cả nước và nhiều cảng biển, cảng hàng không lớn, nên có ý nghĩa quan trọng cho phát triển kinh tế biển và bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Đặc biệt, đây là vùng đất có truyền thống lịch sử đấu tranh cách mạng kiên cường, rất anh hùng, vẻ vang, nơi sản sinh ra biết bao các anh hùng, hào kiệt, đã làm rạng danh lịch sử nước nhà.
Trong giai đoạn vừa qua, toàn vùng đã đạt được nhiều kết quả, thành tích quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. Tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2005-2020 bình quân 7,3%/năm, cao hơn tốc độ tăng cả nước cùng giai đoạn (6,36%/năm). Quy mô kinh tế của vùng năm 2020 đạt 1.157 nghìn tỷ đồng, gấp 3,3 lần so với năm 2010. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ và công nghiệp là chủ đạo; một số ngành kinh tế cơ bản, nhất là các ngành kinh tế biển, các ngành có giá trị gia tăng cao được hình thành và phát triển; du lịch dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Vùng có nhiều tiềm năng thế mạnh phát triển du lịch đặc sắc (Ảnh: PV)
7 đề xuất mới, đột phá trong Quy hoạch vùng
Tuy thách thức có nhiều, nhưng cơ hội cũng không ít để phát triển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, đó là: có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển, phát triển theo hướng xanh, tuần hoàn, sáng tạo, bền vững và bao trùm; các nhà đầu tư nước ngoài đang chuyển dịch chuỗi cung ứng tới Việt Nam; tiềm năng đón khách du lịch quốc nội và quốc tế ngày càng tăng sau đại dịch COVID-19 cũng như cơ chế, chính sách từ Trung ương giúp thúc đẩy các nền tảng hạ tầng cho phát triển. Xuất phát từ những tiềm năng, lợi thế nêu trên, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đã đưa ra những nhận diện, đề xuất có tính mới, đột phá cụ thể:
Một là, tầm nhìn phát triển đến năm 2050, phát triển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ theo đúng tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị là vùng phát triển nhanh, bền vững, mạnh về kinh tế biển; có một số trung tâm công nghiệp, dịch vụ, hợp tác quốc tế lớn ngang tầm khu vực châu Á với các khu kinh tế ven biển hiện đại, hệ thống đô thị ven biển thông minh, bền vững, có bản sắc riêng, thân thiện với môi trường, có khả năng chống chịu cao với thiên tai, dịch bệnh và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu; là nơi các giá trị văn hóa, lịch sử, hệ sinh thái biển, đảo, rừng được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đạt mức cao; quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo được bảo đảm vững chắc.
Hai là, tập trung đầu tư, nâng cấp hệ thống hạ tầng trọng yếu, đặc biệt là giao thông và logistics, năng lượng, hạ tầng thông tin và chuyển đổi số, giáo dục, đào tạo, y tế, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu… Tập trung mọi nguồn lực xây dựng hạ tầng giao thông và logistics kết nối nội vùng và liên vùng, trong đó chú trọng việc nâng cao hiệu quả vận tải hàng hóa, đặc biệt là hàng hải và đường sắt kết nối Bắc - Nam, Đông - Tây, đảm nhận vai trò cửa ngõ ra biển của vùng Tây Nguyên, qua đó giảm chi phí logistics, góp phần tăng năng suất lao động xã hội, tăng mật độ các hoạt động kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của Vùng.
Ba là, phát triển không gian kinh tế ven biển có trọng tâm, trọng điểm. Tập trung phát triển một số khu vực động lực, cực tăng trưởng gắn với các trung tâm chuyên ngành về kinh tế biển lớn tầm khu vực và quốc tế gồm: Tiểu vùng Bắc Trung Bộ; tiểu vùng Trung Trung Bộ và tiểu vùng Nam Trung Bộ với các đặc trưng phát triển riêng có của từng tiểu vùng.
Bốn là, thu hút, kết nối và huy động mọi nguồn lực đầu tư, mọi thành phần kinh tế để đẩy nhanh việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế Vùng, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Tập trung phát triển các cụm liên kết ngành kinh tế biển với trọng tâm là liên kết giữa các khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển. Tập trung phát triển một số ngành, lĩnh vực mũi nhọn của Vùng như: Hóa dầu (ở Thanh Hóa, Quảng Ngãi); năng lượng tái tạo (ở Ninh Thuận, Bình Thuận); công nghiệp ô tô và phụ trợ (ở Quảng Nam, Đà Nẵng); luyện kim, chế biến thép (ở Hà Tĩnh); công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng; chế biến gỗ và lâm sản; chế biến thủy sản… Đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển công nghiệp xanh, gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, công nghiệp công nghệ cao, các công nghệ chủ chốt của cách mạng công nghiệp lần thứ tư để hình thành năng lực sản xuất mới; tham gia hiệu quả vào chuỗi sản xuất của khu vực và toàn cầu.
Cơ cấu lại nông, lâm nghiệp, khai thác, nuôi trồng thủy, hải sản gắn với công nghiệp chế biến, bảo đảm bền vững và hiệu quả cao. Phát triển các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá kết hợp với quốc phòng, an ninh. Phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững gắn với nâng cao thu nhập cho người làm nghề rừng. Phát triển nông nghiệp theo hướng sinh thái, đặc hữu có khả năng chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu; liên kết theo chuỗi giá trị và có giá trị gia tăng cao; gắn với xây dựng nông thôn mới và phát triển du lịch.
Thúc đẩy phát triển dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại; hình thành các trung tâm logistics gắn với cảng biển, ga đường sắt, cảng hàng không, cửa khẩu. Phát triển các trung tâm du lịch mang tầm cỡ khu vực và quốc tế, chú trọng tính chuyên nghiệp, hiện đại, phát huy bản sắc độc đáo và tính đa dạng của vùng. Phát triển mạnh các loại hình du lịch biển, đảo; du lịch sinh thái, thám hiểm địa chất hang động; du lịch tìm hiểu, khám phá di sản văn hóa, lịch sử gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, truyền thống, văn hóa của Vùng.
Đại biểu thảo luận và cho ý kiến về nội dung của Quy hoạch (Ảnh: MPI)
Năm là, tăng cường hợp tác và liên kết liên tỉnh cho phát triển kinh tế - xã hội như: Nam Thanh Hóa - Bắc Nghệ An; Nam Nghệ An - Bắc Hà Tĩnh; Nam Hà Tĩnh - Bắc Quảng Bình; Nam Phú Yên - Bắc Khánh Hòa. Thúc đẩy các hoạt động liên kết phát triển vùng để quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên biển, đảo và rừng; bảo vệ môi trường, nhất là môi trường biển; nâng cao khả năng ứng phó với thiên tai, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn.
Sáu là, phát triển hệ thống đô thị, đặc biệt là dải đô thị ven biển, gắn kết chặt chẽ với phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp để hỗ trợ hiệu quả cho việc phát triển các trung tâm kinh tế biển theo hướng nâng cao mật độ các hoạt động kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và hội nhập quốc tế của các đô thị, có bản sắc đặc trưng của đô thị sinh thái biển hiện đại, thông minh, có khả năng chống chịu cao với thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bẩy là, phát triển toàn diện kinh tế - văn hóa - xã hội - môi trường. Tạo chuyển biến về chất lượng trong giáo dục và đào tạo; đổi mới giáo dục nghề nghiệp gắn với thế mạnh và định hướng phát triển vùng, coi đây là một trong những khâu đột phá cho phát triển vùng. Chú trọng phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, bãi ngang, hải đảo. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu trên cơ sở quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng. Bảo vệ, duy trì chức năng của các hệ sinh thái tự nhiên, đặc biệt là hệ sinh thái biển, đảo, hệ sinh thái rừng, phát triển hài hòa với thiên nhiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế...
Kết luận Hội nghị, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà khẳng định Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sẽ là cơ sở đặc biệt quan trọng để các cấp, các ngành, địa phương nghiên cứu xây dựng và triển khai thực hiện những chính sách, kế hoạch, chương trình phát triển, các dự án đầu tư nhằm phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước, của vùng và các địa phương trong vùng./.